HIỆU QUẢ THUỐC ĐÍCH VỚI DI CĂN NÃO VÀ BỆNH NHÂN CAO TUỔI

HIỆU QUẢ THUỐC ĐÍCH VỚI DI CĂN NÃO VÀ BỆNH NHÂN CAO TUỔI

17:57 - 19/08/2023

Thuốc đích vẫn là lựa chọn hàng đầu với bệnh nhân di căn não hoặc tuổi cao và có sức khỏe yếu.

THUỐC ĐÍCH AUMOLERTINIB SAU HÓA XẠ TRỊ U PHỔI GIAI ĐOẠN 3
ĐIỀU TRỊ SAU KHI THẤT BẠI VỚI THUỐC MIỄN DỊCH
Xét nghiệm DNA khối u trong máu dự báo sự tiến triển khi điều trị Osimertinib trong nghiên cứu FLAURA, AURA3
Miễn dịch Durvalumab điều trị giai đoạn 3. Khám Phá Những Kết Quả Mới Nhất Từ Nghiên Cứu PACIFIC-2
BRIGATINIB VÀ ALECTINIB SAU KHI KHÁNG THUỐC ĐÍCH CRIZOTINIB

HIỆU QUẢ THUỐC ĐÍCH VỚI BỆNH NHÂN DI CĂN NÃO, TUỔI CAO, SỨC KHỎE YẾU

1. Nhóm bệnh nhân di căn não

    Bệnh nhân có đột biến EGFR có nguy cơ cao hơn tiến triển di căn não. Trước đây xạ toàn não và xạ phẫu gamma là điều trị chuẩn với bệnh nhân có di căn não. Trước thời điểm thuốc đích thế hệ 3 osimertinib, thời gian sống thêm trung bình (OS) sau xạ trị di căn não khoảng 14 tháng.

    Một nghiên cứu hồi cứu 351 bệnh nhân có đột biến EGFR và di căn não. Bệnh nhân được xạ phẫu gamma rồi điều trị đích, xạ toàn não rồi điều trị đích hoặc điều trị đích đầu tiên kết hợp xạ phẫu hoặc xạ toàn não khi cần. Thời gian sống thêm với điều trị đầu tiên bằng xạ phẫu, xạ toàn não và thuốc đích là 46, 30 và 25 tháng. Xạ phẫu thể hiện là lựa chọn điều trị đầu tiên hợp lý, tuy nhiên cách tiếp cận này sẽ thay đổi với osimertinib có khả năng điều trị tốt di căn não.

    Với vấn đề suy giảm nhận thức và hoại tử sau xạ trị não, việc xạ trị não cần được xem xét với vai trò của osimertinib. Trong thử nghiệm BLOOM, 32 bệnh nhân tiến triển sau thuốc đích và có xét nghiệm dịch não tủy có di căn màng não được điều trị liều 160mg osimertinib/ngày. Trong 8 bệnh nhân có dấu hiệu thần kinh thì 7 bệnh nhân cải thiện, 1 bệnh nhân ổn định. 15 bệnh nhân không triệu chứng thì 87% tiếp tục duy trì không triệu chứng. Tỉ lệ đáp ứng nội sọ là 63%.

    Mặc dù nghiên cứu BLOOM dùng liều osimertinib 160mg/ngày, cả dữ liệu tiền lâm sàng và lâm sàng đều gợi ý liều thấp osimertinib vẫn có hoạt tính thần kinh tốt. Trong 144 bệnh nhân di căn não ở nghiên cứu AURA, thời gian PFS trung bình gấp đôi ở nhóm osimertinib so với hóa chất (8,5 vs 4,2 tháng) với tỉ lệ đáp ứng khác biệt 70% vs 31%.

    Trong 116 bệnh nhân di căn não trong nghiên cứu FLAURA, PFS trung bình là 15,2 tháng với osimertinib so với 9,6 tháng điều trị erlotinib hoặc gefitinib. Hiệu quả di căn não, màng não (vốn có tiên lượng xấu nhất) của osimertinib tiếp tục thể hiện vại trò ở nhóm đột biến EGFR. Ở điểm này, không có đồng thuận rõ khi nào osimertinib có thể đơn trị với di căn não hoặc khi nào xạ phẫu gamma, xạ toàn não nên kết hợp.

2. Nhóm bệnh nhân cao tuổi và chỉ số toàn trạng kém

    Hầu hết cá dữ liệu về hiệu quả thuốc đích ở bệnh nhân cao tuổi là hồi cứu vì đa số nghiên cứu đều không thu nhận nhóm bệnh nhân này. Một nghiên cứu gồm 20 trung tâm (OCTOMUT) đánh giá bệnh nhân trên 80 tuổi điều trị đích cho thấy hiệu quả và độc tính tương đương với các dữ liệu đã có.

    Một nghiên cứu hồi cứu lớn ở bệnh nhân Nhật Bản trong pha 4 POLARSTAR đánh giá erlotinib ở bệnh nhân đã điều trị gồm 7848 bệnh nhân <75 tuổi, 1911 bệnh nhân 75-84 tuổi và 148 bệnh nhân từ 85 tuổi trở lên. Kết quả thấy rằng hiệu quả erlotinib không kém hơn ở nhóm cao tuổi.

    Một phân tích đa biến khác cũng gợi ý thuốc đích EGFR có thể lợi ích về PFS ở bệnh nhân cao tuổi với HR: 0,38 hơn so với bệnh nhân trẻ tuổi vơi HR: 0,48. Phân tích gộp NEJ001, NEJ002, NEJ003 điều trị bước 1 gefitinib thấy rằng bệnh nhân >70 tuổi có PS tốt thì PFS trung bình đạt 14,3 tháng so với 5,7 tháng hóa trị.

    Các nghiên cứu đều nhất quán cho thấy thuốc đích dung nạp tốt hơn hóa chất mặc dù đa số nghiên cứu bệnh nhân đều có ECOG tốt từ 0-2. Thử nghiệm đơn nhánh pha 2 gồm 72 bệnh nhân chưa điều trị có PS kém 2, 3 thấy rằng 82% bệnh nhân cải thiện bệnh mà không giảm chất lượng cuộc sống.

    Thử nghiệm pha 3 mù đôi TOPICAL đánh giá bệnh nhân giai đoạn tiến triển không hóa trị được do PS kém >2 hoặc bệnh nặng kết hợp đã thiết lập kỳ vọng sống thêm ít nhất 8 tuần với erlotinib hoặc placebo. Tỉ lệ độc tính nổi ban và tiêu chảy tương đương 2 nhóm và kết luận rằng erlotinib có thể là lựa chọn với nhóm bệnh nhân không hóa trị được. Erlotinib giúp cải thiện chất lượng cuộc sống với chỉ số nhận thức và hoạt động sinh lý cũng như cải thiện đau, khó thở, đau ngực, tức ngực và táo bón.

    Như vậy, thuốc đích EGFR vẫn là lựa chọn tốt với bệnh nhân có đột biến EGFR nhưng tuổi cao, sức khỏe yếu có chỉ số toàn trạng PS kém.

https://bstrankhoi.vn/lich-su-thuoc-dich-the-he-1-dieu-tri-dot-bien-egfr.html

https://bstrankhoi.vn/osimertinib-thuoc-dich-the-he-3-hieu-qua-tot-dieu-tri-ung-thu-phoi-giai-doan-muon-co-dot-bien-egfr.html