CHỤP PETCT VÀ ĐIỀU TRỊ TOÀN THÂN

CHỤP PETCT VÀ ĐIỀU TRỊ TOÀN THÂN

15:02 - 18/08/2023

Chụp PETCT đánh giá trong ung thư phổi và dự báo hiệu quả điều trị toàn thân.

ĐÁNH GIÁ GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI (Phần 1)
CÁC KỸ THUẬT CHẨN ĐOÁN NGUYÊN NHÂN TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI ÁC TÍNH
ĐẶC ĐIỂM TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI DO UNG THƯ PHỔI
SƠ LƯỢC TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI ÁC TÍNH DO UNG THƯ PHỔI
ĐỘT BIẾN GEN KRAS TRONG UNG THƯ PHỔI

     VAI TRÒ CỦA PETCT TRONG UNG THƯ PHỔI

  1. Đặc tính sinh học của PET 18F-FDG

    18F-FDG-PET là công cụ chẩn đoán không xâm lấn trong nhiều khối u ác tính trong cơ thể, là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh đo lường chuyển hóa glucose.

    Sự tăng bộc lộ bơm vận chuyển glucose Glut1 được chứng minh liên quan tới sự tích lũy 18F-FDG trong tế bào khối u. Enzyme glucose phosphorylation hexokinase cũng cần thiết cho chuyển hóa glucose trong tế bào u và nồng độ glucose-6-phosphatase bị giảm bởi tăng nồng độ hexokinase.

    Bơm Glut1 được biết là một marker nội tại của sự thiếu oxy, và sự điều hòa thiếu oxy qua yếu tố cảm ứng thiếu oxy HIF-1 đóng vai trò quan trọng với sự tăng bộc lộ Glut1. HIF-1α hỗ trợ u phát triển qua cảm ứng tăng sinh mạch máu qua bộc lộ yếu tố phát triển nội mạc VEGF, bổ trợ với chuyển hóa hiếm khí.

    Do đó đo lường 18F-FDG hấp thu được quyết định bởi sự bộc lộ Glut1, yếu tố HIF-1α, yếu tố tăng sinh mạch máu VEGF trong khối u.

    Tăng hấp thu glucose là cần thiết cho sự sống sót của tế bào ác tính, và bơm vận chuyển glucose đóng vai trò quan trọng với quá trình này. Hiện nay đã phát hiện 14 dưới nhóm protein Glut, trong đó Glut1 và Glut3 cho thấy bộc lộ cao ở các ung thư người.

    Trong các nghiên cứu trước đây đã cho thấy mức độ bộc lộ Glut1 có liên quan tới sự tích lũy 18F-FDG trong tế bào u, tuy nhiên với Glut3 lại không liên quan. Gần đây đã có báo cáo rằng, sự hấp thu 18F-FDG không chỉ quyết định bởi chuyển hóa glucose, tăng sinh mạch máu, biệt hóa tế bào mà còn bởi con đường tính hiệu mTOR.

    Trong một số nghiên cứu, sự tăng hấp thu 18F-FDG liên quan tới đáp ứng liệu pháp đích mTOR. Ngược lại, một số nghiên cứu ghi nhận số lượng 18F-FDG trong tế bào u không phải marker dự báo đáp ứng liệu pháp ức chế mTOR.

    Trong các nghiên cứu trước, số lượng hấp thu 18F-FDG liên quan chặt che với chuyển hóa glucose (Glu1/hexokinase), thiếu oxy (HIF-1α), tăng sinh mạch máu (VEGF và CD34) và con đường tín hiệu PI3K/Akt/mTOR trong khối u phổi.

    Sự tích luỹ 18F-FDG trong tế bào ác tính được biết là cao hơn đáng kể với thể bệnh không phải là ung thư biểu mô tuyến phổi (AC), nhưng sự liên quan giữa các marker phân tử lại chặt chẽ hơn ở thể bệnh AC. Có báo cáo rằng số lượng 18F-FDG tích lũy và chuyển hóa glucose tính bởi sự bộc lộ Glut1 có thể là marker tiên lượng quan trọng dự báo tiên lượng sống sau phẫu thuật ở nhóm AC.

  1. Vai trò lâm sàng cùa 18F-FDG-PET dự báo tiên lượng sau hóa trị, hóa xạ đồng thời, điều trị đích

    18F-FDG-PET không chỉ có vai trò chẩn đoán mà còn dự báo tiên lượng của liệu pháp điều trị. Đo lường giá trị hấp thu SUVs khối u nguyên phát có giá trị tiên lượng. Nhiều nghiên cứu nhằm đánh giá mức SUVmax để là marker tiên lượng sau điều trị u phổi, tuy nhiên giá trị SUV biến đổi cùng với các yếu tố như mức glucose máu, khoảng thời gian giữa thời điểm tiêm và chụp, do đó mức hấp thu 18F-FDG nền bị ảnh hưởng bởi nhiều sai số.

    Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng giá trị SUVmax không đáng tin cậy bằng tỉ số SUVmax khối u/SUV trung thất (tỉ lệ T/M) là tốt hơn để đo lường tích lũy 18F-FDG. Do đó hiện nay chưa có chỉ số chính xác về mức SUV để dự báo tốt tiên lượng sau hóa trị.

    Để dự báo hiệu quả của liệu pháp bằng chụp PET, thời điểm chụp PET sau điều trị cần được bàn bạc kỹ. Nhiều nghiên cứu tập trung vào việc dự báo sớm đáp ứng bằng cách đo lường sự khác nhau giữa mức SUVmax trước và sau điều trị.

    Trước đây, đã có báo cáo giá trị tiên lượng đáng kể của mức SUVmax, tỉ số T/M, tỉ số SUVmax ổ di căn/SUVmax khối u (tỉ số M/P) ở bệnh nhân giai đoạn tiến triển hóa trị. So sánh giá trị tiên lượng của SUVmax, tỉ số T/M, tỉ số M/P thì tỉ số M/P cao là yếu tố tiên lượng độc lập dự báo tiên lượng ngắn sau hóa trị ở giai đoạn tiến triển.

    Giá trị tích lũy của 18F-FDG ở khối u nguyên phát trước mổ sẽ dự báo tiên lượng âm tính ở bệnh nhân tái phát sau mổ điều trị hóa chất có platinum. Mức độ hấp thu 18F-FDG trong tế bào u cao hơn đáng kể ở khối u nguyên phát trước mổ hơn vị trí tái phát, và mức độ hấp thu thấp 18F-FDG ở khối u trước mổ có liên quan chặt chẽ tới sự có mặt của đột biến EGFR. Giá trị hấp thu tại khối u có ý nghĩa dự báo tiên lượng tốt hơn so với vị trí di căn trong đáp ứng với hóa chất khi bệnh tái phát.

    Để đánh giá khả năng dự báo sớm đáp ứng với thuốc đích EGFR, đã có các nghiên cứu đánh giá. Trong dữ liệu tiền lâm sàng, 5 bệnh nhân có đột biến EGFR được đánh giá sự thay đổi hấp thu 18F-FDG ở thời điểm 2 ngày và 4 tuần sau khi bắt đầu điều trị gefitinib so sánh với mức hấp thu trước điều trị. SUVmax giảm đáng kể sau 2 ngày điều trị với mọi mức đáp ứng, mặt khác SUVmax sẽ tăng đáng kể khi bệnh tiến triển. Dữ liệu này gợi ý rằng chụp PETCT có thể dự báo đáp ứng thuốc đích EGFR ở pha sớm của điều trị ở bệnh nhân có đột biến EGFR. Zander và cộng sự so sánh mức hấp thu 18F-FDG sau 1 ngày (sớm) và 6 tuần (muộn) khi điều trị erlotinib và cho thấy sự đáp ứng chuyển hóa sớm 18F-FDG có thời gian sống dài hơn đáng kể, trong khi đáp ứng muộn thì không.

    Chụp PETCT cũng có giá trị ở bệnh nhân hóa xạ trị đồng thời có platinum. Ở 173 bệnh nhân được phân tích mức SUV sau điều trị khoảng 14 tuần. Mức SUV cao sau điều trị ở khối u có liên quan âm tính tới sống sót ở giai đoạn 3. Tuy nhiên thời điểm đánh giá PET cần được nghiên cứu thêm.

  1. Dương tính giả khi chụp PET

    Chụp 18F-FDG-PET giúp chẩn đoán bệnh lý ác tính và đánh giá giai đoạn, phân biệt giữa tổn thương khối u ác tính và tổn thương lành tính. Tuy nhiên hình ảnh dương tính giả có thể gặp khi có viêm hoặc tổn thương u hạt như viêm phổi, lao phổi, nấm phổi, sarcoido. Để tránh bất lợi dương tính giả này, ngưỡng cut-off SUV đã được đánh giá và ngưỡng SUVmax 2,5 là lý tưởng.

    Chụp PET acidamin với L-[3-18F]-α-methyltyrosine (18F-FAMT) được dùng để phân biệt tổn thường lành và ác tính, 18F-FAMT đi vào tế bào u qua chất vận chuyển acidamin type L 1 (LAT1). Gia đình LAT gồm 4 dưới nhóm: LAT1, LAT2, LAT3, LAT4, trong đó đặc biệt LAT1 bộc lộ rất nhiều trong các khối u ở người và không có bằng chứng cho thấy LAT1 bộc lộ ở mô bình thường hoặc tổn thương lành tính.

    Do sự hấp thu 18F-FAMT liên quan chặt chẽ với bộc lộ LAT1, chụp 18F-FAMT được cho là đặc hiệu để phân biệt bệnh lý ác tính, nghiên cứu đã cho thấy 18F-FAMT có thể phân biệt nốt u ác tính và sarcoid.

https://bstrankhoi.vn/petct-va-vai-tro-trong-ung-thu-phoi.html