UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN 2
21:57 - 03/06/2021
CÁC KỸ THUẬT CHẨN ĐOÁN NGUYÊN NHÂN TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI ÁC TÍNH
ĐẶC ĐIỂM TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI DO UNG THƯ PHỔI
SƠ LƯỢC TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI ÁC TÍNH DO UNG THƯ PHỔI
ĐỘT BIẾN GEN KRAS TRONG UNG THƯ PHỔI
UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN 2
1️. Ung thư phổi hay u phổi giai đoạn 2 là gì?
Là ung thư phổi đã muộn hơn giai đoạn 1, khối u lan rộng hơn, lan tới các hạch trong lồng ngực nhưng chưa di căn sang phổi bên kia hay chưa di căn ra các cơ quan khác.
Ung thư phổi giai đoạn 2 gồm 2 giai đoạn chính 2A và 2B, tất nhiên 2A sớm hơn 2B.
Có thể phân ra 2 loại:
- U giai đoạn 2 do khối u lớn và
- U giai đoạn 2 do di căn hạch trong ngực.
Khối u lớn nhất không quá 7cm. Hoặc khối u to bất kì nhưng ăn vào thành ngực, dây thần kinh trong ngực, màng tim, màng phổi. Hoặc có khối u nhỏ khác trong cùng 1 thùy phổi với khối u chính.
Nói chung khối u giai đoạn 2 to, ảnh hưởng tới nhiều cơ quan trong ngực nhưng chưa lan quá rộng trong 1 phổi hay phổi bên kia.
Nhưng nếu khối u còn nhỏ <5cm chẳng hạn và chưa ảnh hưởng đến cơ quan khác. Nhưng lại có hạch trong ngực thì cũng là giai đoạn 2B, tức là khối u không to tại chỗ mà di căn đến hạch để lớn lên. Khối u như này nặng hơn là khối u lớn nhưng chưa di căn hạch.
Giai đoạn 2 chưa có u ở phổi bên kia, chưa có tràn dịch màng phổi, cũng chưa di căn đến gan, não, xương, tuyến thượng thận.
2. Điều trị ung thư phổi giai đoạn 2
Cách điều trị tốt nhất vẫn là mổ cắt khối u rồi tùy từng trường hợp sẽ điều trị bổ trợ bằng hóa chất, thuốc đích hoặc điều trị hóa chất trước khi mổ. Tỉ lệ sống 5 năm sau mổ là 30-50% ở giai đoạn 2.
1. Phẫu thuật ung thư phổi
Thường sẽ mổ cắt cả 1 thùy phổi có u và vét hạch trong ngực, do khối u lớn nên việc cắt ít hơn 1 thùy phổi sẽ có nguy cơ cao tái phát hơn. Trong khi mổ sẽ tiến hành nạo vét toàn bộ hạch bất thường ở cùng bên với khối u; các nghiên cứu cho thấy việc nạo vét toàn bộ hạch này có hiệu quả sống thêm 4 năm cao hơn và ít tái phát tại chỗ hoặc tái phát xa so với việc chỉ lấy mẫu và nạo các hạch dương tính mặc dù một số biến chứng có thể kiểm soát có thể nhiều hơn.
Sau mổ sẽ xét nghiệm kĩ lại khối u đã cắt. Nếp mép cắt âm tính không có tế bào u thì sẽ điều trị thêm hóa chất 4 đợt khoảng 2 tháng. Nếu mép cắt dương tính thì điều trị bổ trợ thêm bằng hóa chất, xạ trị kết hợp, cũng mất khoảng 2 tháng.
2. Điều trị bổ trợ sau mổ
Việc điều trị bổ trợ bằng hóa chất kết hợp có cisplatin cho thấy lợi ích sống sót đáng kể ở bệnh nhân đã mổ, đồng thời làm giảm khả năng tái phát tại chỗ hoặc tái phát xa của các vi di căn trong máu. Các nghiên cứu cho thấy phác đồ Cisplatin+Vinorelbine có hiệu quả sống sót cao nhất có thể do tổng liều Cisplatin trong phác đồ này là lớn nhất.
Hiệu quả của hóa chất bổ trợ sau mổ cũng cao hơn ở bệnh nhân có thể trạng, cân nặng và sức khỏe chung tốt. Còn các yếu tố như: giới, tuổi, loại ung thư phổi, cách thức mổ thì không ảnh hưởng tới hiệu quả của hóa chất.
Điều trị bổ trợ bằng thuốc đích: đây là quan điểm rất mới với ung thư phổi giai đoạn sớm, và xuất phát từ những thành tựu tiên tiến của y học và bước đầu cho thấy hiệu quả ở giai đoạn sớm của bệnh.
Việc nghiên cứu điều trị thuốc đích Osimertinib ở người bệnh ung thư phổi giai đoạn 2 có đột biến EGFR đã phẫu thuật trong nghiên cứu pha III đã cho thấy hiệu quả về sống sót không bệnh.
Thử nghiệm pha 3 ADAURA so sánh 682 người bệnh ung thư phổi từ giai đoạn IB tới IIIA có đột biến EGFR đã phẫu thuật sau đó điều trị Osimertinib 80mg uống hằng ngày trong 3 năm. Osimertinib đã giúp kéo dài thời gian sống không bệnh (Disease free survival) trong tất cả các giai đoạn, đặc biệt là giai đoạn II, IIIA.
3. Điều trị hóa chất tân bổ trợ (điều trị trước mổ)
Hiệu quả chính của việc điều trị hóa chất trước mổ gồm: 1) Giảm kích thước khối u, hỗ trợ cho việc phẫu tích; 2) Xử lí sớm các vi di căn đã có; 3) Tăng khả năng chịu đựng hóa chất cũng như cuộc mổ về sau.
4. Xạ trị ung thư phổi giai đoạn 2
Nếu không mổ cắt u được do sức khỏe yếu thì điều trị triệt căn khối u bằng tia xạ đơn thuần hoặc tia xạ kết hợp hóa chất. Sau đó thường phải bổ trợ thêm hóa chất hoặc thuốc miễn dịch Durvalumab nếu có điều kiện. liều xạ trị đơn thuần khoảng 60-70Gy trong 6-7 tuần tổng đem lại tỉ lệ sống 3 năm khoảng 25% nếu có thể trạng sức khỏe tốt.
Tài liệu tham khảo:
National Comprehensive Cancer NetWork (NCCN) (2020 [cited 14/04/2020). NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology (NCCN Guidelines)
Contact: Ths. Bs Trần Khôi - Bv Phổi Hà Nội
Hotline: 0983 812 084 – 0913 058 294