CÁC KỸ THUẬT CHẨN ĐOÁN NGUYÊN NHÂN TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI ÁC TÍNH

CÁC KỸ THUẬT CHẨN ĐOÁN NGUYÊN NHÂN TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI ÁC TÍNH

15:46 - 19/09/2023

Các kỹ thuật xâm nhập quan trọng giúp chẩn đoán chính xác nguyên nhân tràn dịch màng phổi ác tính

ĐÁNH GIÁ GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI (Phần 1)
ĐẶC ĐIỂM TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI DO UNG THƯ PHỔI
SƠ LƯỢC TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI ÁC TÍNH DO UNG THƯ PHỔI
ĐỘT BIẾN GEN KRAS TRONG UNG THƯ PHỔI
CHỤP PETCT VÀ ĐIỀU TRỊ TOÀN THÂN

Các kỹ thuật xâm nhập chẩn đoán nguyên nhân tràn dịch màng phổi ác tính

Các kỹ thuật xâm nhập như sinh thiết màng phổi qua thành ngực, qua nội soi được thực hiện nhằm mục đích lấy được bệnh phẩm màng phổi làm  xét nghiệm giải phẫu bệnh và vi sinh. Giá trị chẩn đoán của các kỹ thuât là khác nhau do phụ thuộc vào kích thước mãu bệnh phẩm lấy được và vị trí lấy bệnh phẩm.

  • 1. Sinh thiết màng phổi qua thành ngực

Phương pháp này dùng các kim sinh thiết màng phổi qua da, thành  ngực vào khoang màng phổi để lấy bệnh phẩm. Những loại kim thường được sử dụng để sinh thiết màng phổi là kim Abrams, kim Cope và kim Castelain. Tuy nhiên, sinh thiết màng phổi bằng kim chỉ lấy được bệnh phẩm ở màng phổi thành.

Morrone và cộng sự tiến hành nghiên cứu ngẫu nhiên 24 bệnh nhân so sánh giá trị chẩn đoán của hai kim Abrams và Cope cho thấy giá trị chẩn đoán là như nhau nhưng những mẫu bệnh phẩm là lớn hơn đối với kim Abrams. Giá trị chẩn đoán so sánh với xét nghiệm tế bào học dịch màng phổi đơn thuần là tăng 7-27% đối với bệnh ác tính. Một kết quả nghiêm cứu của Tomlinson JR về giá trị sinh thiết màng phổi bằng kim Abrams từ 2893 bệnh nhân cho thấy tỉ lệ chẩn đoán của lao là 75% và của bệnh ác tính là 57%, so sánh với kết quả của Nguyễn Huy Dũng và  cộng sự (2003) tương ứng là 53,73%, 56,84%.

Sinh thiết màng phổi có hướng dẫn định vị của siêu âm hoặc CT scan ngực cho giá trị chẩn đoán cao hơn. Hình ảnh chụp CT scan ngực có tiêm thuốc cản quang của bệnh nhân tràn dịch màng phổi thường sẽ cho thấy vị trí vùng màng phổi bất thường. Nhờ vậy cho phép sinh thiết được vào vùng màng phổi tổn thương. Trong chẩn đoán bệnh ác tính nó có giá trị chẩn đoán cao hơn so với sinh thiết màng phổi mù. Kỹ thuật này đặc biệt hữu ích ở  những bệnh nhân có chống chỉ định cho nội soi lồng ngực chẩn đoán.

Sinh thiết màng phổi dưới hướng dẫn của chẩn đoán hình ảnh đã cho  thấy có giá trị chẩn đoán cao hơn sinh thiết màng phổi bằng kim Abrams  trong các bệnh ác tính. Trong một nghiên cứu của MaskellNA và cộng sự trên 50 bệnh nhân có tế bào dịch màng phổi âm tính nhưng vẫn nghi ngờ tràn dịch màng phổi ác tính, sinh thiết bằng kim Abrams chẩn đoán chính xác bệnh ác tính trong 8/17 trường hợp (độ nhậy 47%, độ đặc hiệu 100%, giá trị dự đoán âm tính 44%, giá trị dự đoán dương tính 100%) và sinh thiết có hướng dẫn của CT chẩn đoán chính xác bệnh ác tính trong 13/15 trường hợp (độ nhậy 87%, độ đặc hiệu 100%, giá trị dự đoán âm tính 80%, giá trị dự đoán dương tính 100%).

  • 2. Nội soi lồng ngực

Nội soi lồng ngực sinh thiết màng phổi đã cho thấy có hiệu quả cao và an toàn trong chẩn đoán nguyên nhân tràn dịch màng phổi. Nội soi lồng ngực chẩn đoán bao gồm hai phương pháp chính như sau:

  • 3. Nội soi màng phổi ống cứng gây tê tại chỗ

Nội soi màng phổi (NSMP) thường được thực hiện khi các biện pháp chẩn đoán trên thất bại. NSMP có ưu điểm cho phép quan sát trực tiếp vào các tổn thương của màng phổi, phổi, trung thất và cơ hoành, qua đó có thể sinh thiết chính xác vào tổn thương nghi ngờ. Đây là phương pháp hiện đại có hiệu quả nhất để chẩn đoán cũng như điều trị các bệnh lý màng phổi. NSMP gây tê tại chỗ có thể được thực hiện bởi các bác sỹ lâm sàng hoặc phẫu thuật viên và là một kỹ thuật an toàn và hiệu quả có giá trị chẩn đoán cao. Nó cũng có giá trị chẩn đoán cao hơn sinh thiết màng phổi mù đối với lao màng phổi. Trong nghiên cứu của Nguyễn Huy ũng v cộng sự (2009) trên 54 bệnh nhân cho  thấy giá trị chẩn đoán của nội soi màng phổi đối với lao và ung thư tương ứng là 83,3%, 100% và không có tai biến liên quan đến thủ thuật.

  • 4. Phẫu thuật nội soi lồng ngực có hỗ trợ video (VATS)

VATS được thực hiện bởi các phẫu thuật viên lồng ngực và được tiến hành với gây mê toàn thân và thông khí một phổi. Vì vậy, nó không là lựa chọn thích hợp với những trường hợp bệnh nhân yếu và những trường hợp có bệnh nặng kết hợp. Với VATS, phẫu thuật viên có thể thực hiện những kỹ  thuật khó thực hiện được với NSMP, thường kết hợp cả chẩn đoán và điều trị cùng lúc. Thủ thuật này cho giá trị chẩn đoán cao và  cũng tương đối an toàn với tỉ  lệ biến chứng thấp. Ưu điểm của VATS hơn NSMP ngay tại chỗ là phẫu thuật viên có thể thực hiện được các phẫu thuật lồng ngực khác trong lúc phẫu thuật nếu thích hợp.