THUỐC ĐÍCH ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI
20:17 - 17/05/2021
Tổng quan về thuốc đích điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ hiện nay.
ĐIỀU TRỊ SAU KHI THẤT BẠI VỚI THUỐC MIỄN DỊCH
Xét nghiệm DNA khối u trong máu dự báo sự tiến triển khi điều trị Osimertinib trong nghiên cứu FLAURA, AURA3
Miễn dịch Durvalumab điều trị giai đoạn 3. Khám Phá Những Kết Quả Mới Nhất Từ Nghiên Cứu PACIFIC-2
BRIGATINIB VÀ ALECTINIB SAU KHI KHÁNG THUỐC ĐÍCH CRIZOTINIB
Các thuốc đích chữa ung thư phổi hiện nay: afatinib, alectinib, brigatinib, certitinib, crizotinib, erlotinib, gefitinib, osimertinib, dacomitinib, dabrafenib, trametinib, entrectinib, larotrectinib, loratinib là các TKIs dạng uống. Bevacizumab, ramucirumab là các kháng thể đơn dòng chống yếu tố phát triển nội mạc (VEGF) hoặc receptor của VEGF. Cetuximab là kháng thể đơn dòng đích EGFR.
- Erlotinib, Gefitinib, Afatinib, Dacomitinib ức chế đột biến EGFR
- Osimertinib ức chế đột biến EGFR và T790M.
- Crizotinib ức chế đột biến ALK, ROS1, MET (khuếch đại MET hoặc đột biến mất exon 14 gen MET).
- Ceritinib ức chế ALK và receptor IGF-1.
- Alectinib ức chế ALK, RET.
- Brigatinib ức chế nhiều loại đột biến ALK.
- Lorlatinib ức chế ALK, ROS1.
- Dabrafenib ức chế BRAFV600E; trametinib ức chế MEK, cả hai thuốc ức chế con đường RAS/RAF/MEK/ERK.
- Entrectinib và larotrectinib ức chế protein TRK đột biến.
- Capmatinib ức chế nhiều loại đột biến MET. Selpercatinib, pralsetinib, cabozantinib, vandetinib ức chế đột biến RET.
Thuốc đích được khuyến cáo khi có đột biến và độc lập với mức PDL1. Khi PDL1>=1% và có đột biến gen thì nên dùng thuốc đích do có tỉ lệ đáp ứng cao hơn thuốc miễn dịch và dễ dung nạp hơn. Khuyến cáo cần xét nghiệm đột biến gen trước khi vào ICI, ít nhất nên làm được EGFR, ALK.
CÁC CON ĐƯỜNG TÍN HIỆU NHẮM ĐÍCH TRONG UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ
Có tới 60% ung thư phổi biểu mô tuyến và 50-80% ung thư phổi biểu mô vảy có đột biến ở các gen sinh ung thư. Các đột biến ở các receptor hoặc protein kinase có thể kích hoạt một loạt tín phức tạp như RAS-RAF-MEK-ERK hoặc MAPK, PI3K-AKT-mTOR hoặc JAK-STAT. Điều này dẫn tới sự phát triển, tăng sinh và sống sót không kiểm soát.
Các thuốc đích thành công sẽ nhận biệt và ức chế các con đường tín hiệu bị tăng điều hòa này bằng thuốc phân tử nhỏ hoặc kháng thể đơn dòng kháng receptor (mAb).
THUỐC ĐÍCH ỨC CHẾ TĂNG SINH MẠCH
BEVACIZUMAB
Là thuốc ức chế VEGF (yếu tố tăng sinh mạch máu cho khối u phát triển).
Bevacizumab được khuyến cáo dùng kết hợp phác đồ hóa chất Carboplatin/Paclitaxel, Carboplatin/Pemetrexed, Cisplatin/Pemetrexed với bệnh nhân khỏe có chỉ số PS 0-1, thể bệnh ung thư phổi không phải tế bào vảy, không có đột biến EGFR, ALK, ROS1, MET(mất exon 14), BRAF, xét nghiệm miễn dịch PDL1<1%, và chống chỉ định với thuốc miễn dịch.
Điều quan trọng là để dùng Bevacizumab là thể bệnh ung thư phổi không phải tế bào vảy, không có tiền sử ho ra máu và các phác đồ có nguy cơ hạ tiểu cầu.
RAMUCIRUMAB
Là thuốc đích hướng tới thụ thể trên màng tế bào khối u của VEGF.
Ramucirumab kết hợp thuốc đích Erlotinib được khuyến cáo điều trị bước 1 cho bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn di căn có đột biến EGFR(+).
Phác đồ Ramucirumab + hóa chất Docetaxel được khuyến cáo cho ung thư phổi giai đoạn di căn đã tiến triển sau hóa chất bước 1, phác đồ này có thể áp dụng với nhiều loại thể bệnh ung thư phổi.
CÁC THUỐC ĐÍCH ỨC CHẾ ĐỘT BIẾN EGFR
EGFR hay ErB-1 thuộc gia đình receptor tyrosine kinase có thể kích hoạt nhiều con đường tín hiêu dẫn tới sự phát triển, tăng sinh và sống sót của tế bào, các con đường đó gồm RAS-RAF-MEK-ERK hoặc MAPK, PI3K-AKT-mTOR.
Có 3 cơ chế dẫn tới sự hoạt hóa EGFR gồm: tăng bộc lộ EGFR trên tế bào ác tính, tăng sản xuất chất gắn bởi tế bào ác tính, hoạt hóa phần nội bào ác tính của EGFR. EGFR có sự quá bộc lộ trong 40-80% ung thư phổi không tế bào nhỏ. 2 đột biến hay gặp nhất là exon19del (60%) và L858R (35%) dẫn tới sự hoạt hóa mà không cần chất gắn. EGFR đột biến có thể bị ức chế bởi thuốc phân tử nhỏ TKI hoặc kháng thể đơn dòng như cetuximab.
Thuốc đích thế hệ 1
ERLOTINIB, GEFITINIB
Erlotinib và gefitinib là thuốc đích chữa ung thư phổi được chứng minh hiệu quả qua nhiều nghiên cứu khi so sánh với điều trị hóa chất ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn có đột biến EGFR.
Gefitinib điều trị đột biến exon19del, L858R đem lại tỉ lệ đáp ứng 55-75% với thời gian sống không tiến triển trung bình (mPFS) đạt 9.2-9.7 tháng. Khi so sánh với hóa chất điều trị bước 1, gefitinib cải thiện đáng kể mPFS so với hóa chất carboplatin+paclitaxel, tỉ lệ đáp ứng cũng cao hơn với gefitinib đạt 71% so với 47% hóa chất. Thử nghiệm WJTORG 3405 so sánh gefitinib với hóa chất carboplatin+docetaxel, gefitinib vượt trội hơn hóa chất với mPFS đạt 9.2 tháng và 6.3 tháng, tỉ lệ đáp ứng đạt 62% và 32%.
Erlotinib được thử nghiệm so sánh đầu tiên với hóa chất carboplatin+gemcitabine trong thử nghiệm ChineseOPTIMAL. Cả PFS (13.1 tháng vs 4.6 tháng) và tỉ lệ đáp ứng (83% vs 36%) đều cao hơn với erlotinib so với hóa chất. Ở Châu Âu, erlotinib cũng thể hiện hiệu quả trong thử nghiệm EURTAC, erlotinib bước 1 cải thiện tỉ lệ đáp ứng (64% vs 18%) và kéo dài PFS (9.7 tháng vs 5.2 tháng) so với hóa chất.
Các thuốc đích này khi dùng đơn độc sẽ có hiệu quả tương đương và ít tác dụng phụ hơn dùng kèm hóa chất. Vì vậy nếu bệnh nhân đang điều trị hóa chất và có đáp ứng tốt, đồng thời phát hiện có đột biến EGFR thì có thể tiếp tục hoàn thành phác đồ hóa chất rồi chuyển duy trì với thuốc đích.
Nếu bệnh nhân dùng thuốc đích từ đầu và có dấu hiệu tiến triển xấu trên phim chụp chiếu nhưng chưa có triệu chứng thực tế thì có thể tiếp tục dùng thuốc đích trong khi làm các xét nghiệm đi tìm nguyên nhân bệnh tiến triển.
Thuốc đích thế hệ 2
AFATINIB
Là thuốc đích chữa ung thư phổi thế hệ 2 ức chế các đột biến gen EGFR, ErbB2, ErbB4. Afatinib được đánh giá trong loạt thử nghiệm LUX-lung gồm 8 nghiên cứu điều trị bước 1, bước 2 và bước 3 với đột biến EGFR. Thử nghiệm pha 2 LUX-lung 2 đánh giá hiệu quả afatinib trong ung thư phổi biểu mô tuyến có đột biến EGFR exon19del và L858R, afatinib cho tỉ lệ đáp ứng 61%, với 2 đột biến exon19del, L858R đáp ứng 66%. Afatinib sau đó được so sánh với hóa chất có platinum trong thử nghiệm pha 3 LUX-lung 3, PFS được cải thiện với afatinib (11.1 tháng vs 6.9 tháng) và tỉ lệ đáp ứng cao hơn (56% vs 23%). Sau cùng thử nghiệm Lux-lung 7 so sánh afatinib và gefitinib, afatinib cải thiện PFS so với gefitinib (11 tháng vs 10.9 tháng), thời gian tới khi thất bại (13.7 tháng vs 11.5 tháng), đáp ứng cũng cao hơn với afatinib.
Afatinib không áp dụng điều trị các bước sau do tỉ lệ đáp ứng thấp và không khác biệt về hiệu quả trong các nghiên cứu. Tuy nhiên khi so sánh với thuốc thế hệ 1 thì ko khác biệt về hiệu quả nhưng Afatinib gây nhiều tác dụng phụ hơn và chất lượng cuộc sống kém hơn. Độc tính độ 3 hoặc cao hơn với afatinib là tiêu chảy 13%, ban da 9%, mệt mỏi 6%.
DACOMITINIB
Dacomitinib ức chế không thuận nghịch các receptor ErbB/HER gồm EGFR, HER1, HER2 và HER4. Thử nghiệm pha 3 ARCHER 1050 so sánh dacomitinib và gefitinib điều trị bước 1, kết quả thấy mPFS dacomitinib đạt 14.7 tháng so với 9.2 tháng gefitinib, thời gian sống còn (OS) cải thiện hơn với dacomitinib đạt 34.1 tháng so với 27 tháng gefitinib.
Dacomitinib được khuyến cáo điều trị bước 1 ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoan di căn có đột biến EGFR+. NCCN khuyến cáo phân tầng điều trị và Dacomitinib được phân loại là “khuyến cáo khác”; Osimertinib vẫn được khuyến cáo ở mức “ưu tiên”.
OSIMERTINIB
Khoảng 50-60% bệnh nhân điều trị thuốc đích thế hệ 1 sẽ xuất hiện đột biến kháng thuốc T790M và thuốc đích thế hệ 3 có sự chọn lọc cao điều trị bệnh nhân xuất hiện đột biến T790M sau thuốc đích thế hệ 1. Trong thử nghiệm AURA osimertinib có tỉ lệ đáp ứng 71% và mPFS đạt 10.1 tháng.
Osimertinib là thuốc đích chữa ung thư phổi ức chế cả đột biến EGFR và T790M. T790M là đột biến kháng với thuốc đích gặp ở 60% trường hợp. Đa số bệnh nhân điển hình sẽ tiển triển sau khoảng 9.7-13 tháng dùng erlotinib, gefitinib, afatinib. Nếu Osimertinib điều trị ngay từ đầu thì có thời gian sống không tiến triển bệnh khoảng 19 tháng (tức là cao hơn các thuốc đích khác).
Trong thử nghiệm FLAURA gồm các bệnh nhân chưa điều trị thuốc đích được dùng osimertinib so với thuốc đích thế hệ 1 erlotinib và gefitinib. Kết quả thấy PFS dài hơn đáng kể với osimertinib đạt 18.9 tháng so với 10.2 tháng. Tỉ lệ đáp ứng (80% vs 76%) và thời gian đáp ứng trung bình mDOR (17.2 tháng vs 8.5 tháng) đều ưu thế hơn với osimertinib. Kết quả OS sau cùng đạt 38.6 tháng osimertinib so với 31.8 tháng thuốc đích thế hệ 1. Ở thời điểm 1 năm có 70% bệnh nhân vẫn dùng osimertinib so với 47% thuốc thế hệ 1, và thời gian đến khi điều trị bước tiếp theo cũng dài hơn với osimertinib (25.4 tháng vs 13.7 tháng).
Osimertinib được khuyến cáo điều trị ưu tiên ngay từ đầu với bệnh nhân có đột biến EGFR+.
Osimertinib được khuyến cáo điều trị với bệnh nhân tiến triển sau các thuốc đích thế hệ 1, 2 có đột biến T790M+.
Nếu Osimertinib được dùng ngay từ đầu và khi thất bại điều trị thì việc điều trị tiếp theo sẽ phụ thuộc việc có hay không triệu chứng của bệnh tiến triển, các phương pháp tiếp theo là: 1) Các liệu pháp tại chỗ; 2) Tiếp tục Osimertinib; 3) Dùng các hóa chất bước 1 cho gđ di căn. Ngoài ra Osimertinib còn có hiệu quả ở bệnh nhân có đột biến T790M tiến triển tại vùng màng não.
Kết hợp điều trị
Kết hợp với thuốc đích thế hệ 1
Các chiến lược điều trị kết hợp thuốc đích với các thuốc khác để cố gắng cải thiện đáp ứng tốt hơn với đột biến EGFR. Thử nghiệm pha 2 CALGB 30406 so sánh hóa chất kết hợp erlotinib, các chỉ số như đáp ứng, PFS, OS đều tương đương nhưng kết hợp hóa chất + thuốc đích gây nhiều độc tính hơn. Thử nghiệm khác kết hợp hóa chất và gefitinib thì cho đáp ứng cao hơn so với gefitinib đơn thuần (75% vs 63%), PFS và OS cũng dài hơn đáng kể nhưng độc tính lại cao hơn, độc tính độ 3 gặp ở 51% nhóm kết hợp so với 25% gefitinib đơn thuần. Nghiên cứu RELAY kết hợp erlotinib với thuốc kháng sinh mạch ramucirumab giúp cải thiện PFS (19.4 tháng vs 12.4 tháng) nhưng độc tính lại nhiều hơn (72% vs 54% gặp độc tính độ 3-4).
Kết hợp với thuốc đích thế hệ 3
Các thử nghiệm đang tiến hành kết hợp hóa chất, bevacizumab và ramucirumab với thuốc osimertinib.
Amivantamab và Lazertinib
CÁC THUỐC ĐÍCH ỨC CHẾ ĐỘT BIẾN ALK, ROS1
Trong thử nghiệm pha 2 ASCEND-2 tỉ lệ đáp ứng ceritinib đạt 38.6%, thời gian đáp ứng 9.7 tháng. Tác dụng phụ thường gặp gồm: buồn nôn 81.4%, tiêu chảy 80%, nôn 62.9%. Trong thử nghiệm ASCEND-4, ceritinib so sánh với hóa chất điều trị bước 1, ceritinib cải thiện PFS 8 tháng đạt 16.6 tháng vs 8.1 tháng hóa chất. Thử nghiệm ASCEND-8 đánh giá các liều ceritinib 450mg, 600mg, 750mg cải thiện độc tính tiêu hóa hay không, tỉ lệ đáp ứng ở 3 liều là tương đương 72-78%, mặc dù độc tính tiêu hóa có thấp hơn nhưng vẫn còn cao 75.9%.
- Alectinib
Alectinib là thuốc đích chọn lọc cao với đột biến ALK đã được so sánh với crizotinib. Trong thử nghiệm J-ALEX ở bệnh nhân đột biến ALK chưa điều trị dùng alectinib liều 300mg x 2 lần/ngày so với crizotinib, PFS trung bình đạt 34.8 tháng alectinib so với tháng crizotinib. Trong thử nghiệm ALEX pha 3 so sánh alectinib liều 600mg x 2 lần/ngày và crizotinib, thời gian sống trung bình hiện chưa đạt với alectinib và tỉ lệ sống 5 năm alectinib đạt 62.5%. Tỉ lệ tiến triển thần kinh thấp hơn với alectinib so với crizotinib: 12% vs 45%. Tỉ lệ đáp ứng đạt 83% alectinib so với 76% crizotinib. Alectinib dễ dung nạp hơn crizotinib, tỉ lệ độc tính độ 3-5 là 41% alectinib và 50% crizotinib.
- Brigatinib
Brigatinib là thuốc ức chế ALK, ROS1, EGFR (tiền lâm sàng). Trong nghiên cứu ALTA, bệnh nhân có đột biến ALK đã điều trị được dùng liều 90mg/ngày, 180mg/ngày brigatinib; tỉ lệ đáp ứng 45% liều 90mg/ngày và 54% liều 180mg/ngày, tỉ lệ đáp ứng nội sọ cao 42% liều 90mg, 67% liều 180mg; PFS trung bình đạt 9.2 và 12.9 tháng tương ứng.
Thử nghiệm pha 3 ALTA-1L so sánh brigatinib với crizotinib ở bệnh nhân đột biến ALK đã dùng 1 liệu pháp trước đây. Tỉ lệ đáp ứng đạt 74% brigatinib và 63% crizotinib, tỉ lệ đáp ứng nội sọ cao hơn với brigatinib 66% so với crizotinib 16%, PFS trung bình đạt 24 tháng brigatinib và 11 tháng crizotinib.
- Lorlatinib
Lorlatinib là thuốc đích thế hệ 3 ức chế ALK, ROS1. Trong thử nghiệm pha 2, lorlatinib thể hiện hoạt tính đáng kể với di căn não, đáp ứng chung đạt 47%, đáp ứng nội sọ 63%
ALECTINIB
Là thuốc đích chữa ung thư phổi ức chế đột biến gen ALK, RET.
NCCN khuyến cáo Alectinib điều trị bước 1 cho bệnh nhân có đột biến gen ALK và là lựa chọn ưu tiên. Ngoài ra các thuốc Brigatinib, Ceritinib, Crizotinib cũng là lựa chọn điều trị cho đột biến gen ALK.
NCCN cũng khuyến cáo Alectinib là liệu pháp điều trị ở bước sau cho bệnh nhân có đột biến ALK tiến triển sau khi dùng thuốc Crizotinib. Trong các thử nghiệm cho thấy Alectinib cho tỉ lệ đáp ứng khá cao ở nhóm di căn não.
CRIZOTINIB
Thuốc đích chữa ung thư phổi Crizotinib có khả năng ức chế các đột biến: ROS1, ALK, một số loại đột biến MET (khuếch đại mức gen MET, đột biến exon 14 gen MET); hiện tại Crizotinib được chấp thuận điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến gen ALK hoặc ROS1.
Ngoài crizotinib, NCCN khuyến cáo 4 thuốc sau điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến ALK: Alectinib, Crizotinib, Brigatinib, Ceritinib.
Đột biến tái sắp xếp gen ALK
- NCCN khuyến cáo điều trị Crizotinib bước 1 cho ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biên ALK. Tuy nhiên trong nhóm thuốc điều trị đột biến ALK thì Alectinib là lựa chọn ưu tiên, Brigatinib, Ceritinib là lựa chọn khác.
- Crizotinib cũng cho thấy hiệu quả và được khuyến cáo điều trị các bước sau ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn tiến triển sau điều trị bước 1 không có Crizotinib.
Đột biến tái sắp xếp gen ROS1
- Crizotinib rất hiệu quả khi điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến gen ROS1 với tỉ lệ đáp ứng 70-80%.
- NCCN phân tầng các thuốc đích điều trị bước 1 với đột biến gen ROS1 và quyết định rằng Crizotinib và Entrectinib là lựa chọn ưu tiên cho bước 1 do dễ dung nạp hơn so với Ceritinib. Lorlatinib là lựa chọn nếu có sự tiến triển kháng với Crizotinib, Ceritinib, Entrectinib.
CERITINIB
Là thuốc ức chế đột biến gen ALK, ROS1.
Đột biến tái sắp xếp gen ALK
- NCCN khuyến cáo Ceritinib là bước 1 ở ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến gen ALK. Alectinib là lựa chọn ưu tiên nhất cho đột biến ALK; Ceritinib, Brigatinib là các lựa chọn khác, và Crizotinib là lựa chọn trong một số tình huống.
Đột biến tái sắp xếp gen ROS1
- Trong các thử nghiệm đánh giá Ceritinib điều trị bước 1 ở ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến gen ROS1 cho thấy tỉ lệ đáp ứng là 62%, thời gian sống thêm trung bình 24 tháng.
- NCCN khuyến cáo mức 2A điều trị bước 1 Ceritinib ở ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến ROS1.
- NCCN phân tầng các thuốc đích điều trị bước 1 với đột biến gen ROS1 và quyết định rằng Crizotinib và Entrectinib là lựa chọn ưu tiên cho bước 1 do dễ dung nạp hơn so với Ceritinib. Lorlatinib là lựa chọn nếu có sự tiến triển kháng với Crizotinib, Ceritinib, Entrectinib.
BRIGATINIB
Là thuốc ức chế đột biến gen ALK
Brigatinib được khuyến cáo điều trị mức 1 cho ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến gen ALK. NCCN phân tầng phác đồ bước 1 và quyết định rằng Brigatinib và Ceritinib là lựa chọn khác cho đột biến ALK; Alectinib là lựa chọn ưu tiên nhất; Ceritinib, Brigatinib là lựa chọn khác, Crizotinib là lựa chọn trong một số tình huống.
NCCN khuyến cáo điều trị Brigatinib (mức 2A) cho ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến ALK tiến triển sau Crizotinib, bệnh nhân cần được theo dõi sát triệu chứng hô hấp nhất là trong tuần đầu tiên.
LORLATINIB
Là thuốc đích thế hệ 3 ức chế các đột biến gen ALK, ROS1 và thấm tốt vào não và tủy sống; thuốc ức chế rộng các đột biến kháng thuốc xuất hiện sau điều trị các thuốc đích ức chế ALK thế hệ 1, 2.
Liệu pháp bước sau:
- Dữ liệu thấy Lorlatinib rất hiệu quả ở bệnh nhân tiến triển sau điều trị các thuốc ức chế đột biến ALK khác.
- NCCN khuyến cáo mức 2A Lorlatinib cho điều trị bước sau ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến gen ALK và bị tiến triển sau các thuốc đích khác như: Alectinib, Brigatinib, Ceritinib. NCCN khuyến cáo mức 2A điều trị bước sau Lorlatinib cho ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến ROS1 và bệnh tiến triển sau điều trị thuốc Crizotinib, Entrectinib, Ceritinib.
CÁC THUỐC ĐÍCH ỨC CHẾ ĐỘT BIẾN BRAF
DABRAFENIB VÀ TRAMETINIB
Là thuốc đích chữa ung thư phổi ức chế con đường RAS/RAF/MEK/ERK.
NCCN khuyến cáo xét nghiệm đột biến gen BRAF ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn và khuyến cáo điều trị kết hợp Dabrafenib/Trametinib bước 1 ưu tiên ở các nhóm di căn này, nếu bệnh nhân không dung nạp phác đồ kết hợp trên có thể dùng đơn trị Dabrafenib hoặc Vemurafenib.
NCCN phân tầng phác đồ bước 1: 1) ưu tiên kết hợp Dabrafenib/Trametinib; 2) dùng đơn trị Dabrafenib hoặc Vemurafenib; 3) quay về phác đồ hóa chất nếu không dung nạp. Với bệnh nhân có đột biến BRAF và tiến triển sau điều trị hóa chất thì sẽ dùng kết hợp Dabrafenib/Trametinib.
CÁC THUỐC ĐÍCH ỨC CHẾ NTRK VÀ ROS1
LAROTRECTINIB
Đột biến gen NTRK mã hóa protein TRK có vai trò như một gen sinh ung thư cho nhiều loại khối u đặc như: phổi, tuyến nước bọt, tuyến giáp và sarcoma. Thuốc Larotrectinib là thuốc đích chữa ung thư phổi ức chế protein TRK có hiệu quả ở cả bệnh nhân trẻ tuổi và cao tuổi với bệnh ở giai đoạn di căn hoặc không mổ được.
Nghiên cứu ở 55 bệnh nhân có đột biến NTRK trong nhiều loại u đặc thấy tỉ lệ đáp ứng chung 75%. 90% bệnh nhân sống đến 1 năm, 18% có đáp ứng hoàn toàn, 69% duy trì đáp ứng, 58% bệnh nhân không tiến triển.
NCCN khuyến cáo điều trị Larotrectinib ở bước 1 hoặc bước sau ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn. Khuyến cáo Larotrectinib ưu tiên hơn hóa chất.
ENTRECTINIB
Là thuốc ức chế ROS1 và TRK.
NCCN khuyến cáo Entrectinib điều trị bước 1 cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến ROS1 và khuyến cáo Entrectinib điều trị bước 1, bước sau cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến NTRK.
NCCN phân tầng phác đồ điều trị bước 1: Entrectinib, Larotrectinib ưu tiên điều trị bước 1 cho ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn có đột biến NTRK. Lorlatinib khuyến cáo điều trị cho bệnh nhân có đột biến ROS1 mà bệnh tiến triển sau điều trị bước 1 với Crizotinib, Ceritinib, Entrectinib.
KHÁNG THỂ ĐƠN DÒNG EGFR
CETUXIMAB
Là 1 loại kháng thể đơn dòng chống lại EGFR.
Các nghiên cứu cho thấy có hiệu quả khi kết hợp Cetuximab với hóa chất so với hóa chất đơn thuần, nhưng hiệu quả này là rất ít, hơn nữa độc tính khi kết hợp Cetuximab lại khá nhiều và khó dung nạp. Vì vậy hiện tại NCCN không khuyến cáo điều trị Cetuximab kết hợp hóa chất.
Trên đây là các thuốc đích hiện đang được áp dụng điều trị trong ung thư phổi giai đoạn muộn và các chỉ định điều trị. Việc áp dụng thuốc nào rất phụ thuộc vào đặc điểm bệnh ung thư phổi ở mỗi bệnh nhân và tiền sử bệnh lý của bệnh nhân đó và cần được bác sĩ xem xét, đánh giá một cách rất tỉ mỉ.
Contact: Ths. Bs Trần Khôi - Bv Phổi Hà Nội
Hotline: 0983 812 084 – 0913 058 294