Miễn dịch Durvalumab điều trị giai đoạn 3. Khám Phá Những Kết Quả Mới Nhất Từ Nghiên Cứu PACIFIC-2
15:36 - 02/08/2024
Góc nhìn từ chuyên gia về hiệu quả Durvalumab sau hóa xạ trị đồng thời ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn 3
THUỐC ĐÍCH AUMOLERTINIB SAU HÓA XẠ TRỊ U PHỔI GIAI ĐOẠN 3
ĐIỀU TRỊ SAU KHI THẤT BẠI VỚI THUỐC MIỄN DỊCH
Xét nghiệm DNA khối u trong máu dự báo sự tiến triển khi điều trị Osimertinib trong nghiên cứu FLAURA, AURA3
BRIGATINIB VÀ ALECTINIB SAU KHI KHÁNG THUỐC ĐÍCH CRIZOTINIB
Khám Phá Những Kết Quả Mới Nhất Từ Nghiên Cứu PACIFIC-2: Góc Nhìn Từ Chuyên Gia
Sau thành công của thử nghiệm PACIFIC gốc, với những kết quả ấn tượng về tỷ lệ sống sót tổng thể (OS) và tỷ lệ sống không tiến triển (PFS) khi sử dụng liệu pháp miễn dịch (IO) sau hóa xạ trị cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III (NSCLC), kết quả không khả quan từ PACIFIC-2 đã gây bất ngờ lớn. PACIFIC-2 là nghiên cứu pha III đầu tiên được thiết kế để đánh giá hiệu quả của IO kết hợp với hóa xạ trị đồng thời, sau đó là IO củng cố, ở bệnh nhân NSCLC giai đoạn III không thể phẫu thuật. ILCN đã có buổi trò chuyện với bác sĩ Jeffrey D. Bradley, nhà nghiên cứu chính của PACIFIC-2 và Phó Chủ tịch bộ phận Phát triển Công nghệ và Liệu pháp Proton tại Penn Medicine, Philadelphia, để nghe nhận định của ông về kết quả này.
ILCN: Tại sao ông nghĩ PACIFIC-2 lại không đạt được kết quả tích cực mặc dù PACIFIC gốc đã có những kết quả rất khả quan?
Dr. Bradley: Nguyên nhân là gì? Đây là thử nghiệm đầu tiên trong số nhiều thử nghiệm đang kiểm tra IO đồng thời với hóa xạ trị ở bệnh nhân NSCLC tiến triển cục bộ. Trước khi biết kết quả, đã có những chỉ trích về thiết kế thử nghiệm vì nhóm chứng không sử dụng phác đồ PACIFIC.
Nguyên nhân nhóm chứng không sử dụng phác đồ PACIFIC là do ở một số quốc gia, phác đồ này chưa được phê duyệt cho đến khi có kết quả sống sót tổng thể. Tại các quốc gia tham gia thử nghiệm này, bao gồm Châu Á, Đông Âu và Nam và Trung Mỹ, bệnh nhân không được sử dụng durvalumab vì các cơ quan quản lý chưa phê duyệt.
Chúng tôi nghĩ việc thêm IO đồng thời sẽ giúp ích, nhưng không phải vậy. Chúng tôi không thấy bất kỳ sự cải thiện nào trong 6 tháng đầu. Sau đó, có vẻ như hiệu quả của PACIFIC xuất hiện khi bệnh nhân sử dụng IO sau khi hoàn thành hóa xạ trị. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân đã ngừng điều trị ở nhóm thử nghiệm. Khi bệnh nhân bắt đầu gặp tác dụng phụ, thường biện pháp dễ nhất là ngừng sử dụng thuốc thử nghiệm, trong trường hợp này là IO đồng thời.
Nhiều bệnh nhân trong thử nghiệm này có khối u lớn; hơn một nửa số bệnh nhân có khối u T4. Đây là những bệnh nhân chúng tôi biết có nguy cơ cao gặp tác dụng phụ, bao gồm viêm thực quản. Tỷ lệ cao hơn của các khối u T4 và khối lượng khối u lớn trong thử nghiệm này cho thấy đây là một nhóm bệnh nhân khác so với PACIFIC.
ILCN: Liệu chúng ta sẽ có kết quả tốt hơn nếu thử nghiệm chỉ sử dụng IO kết hợp với xạ trị mà không có hóa trị đồng thời?
Dr. Bradley: Đó là một câu hỏi tuyệt vời. Chúng tôi đang đặt ra câu hỏi này trong thử nghiệm mang tên NRG-LU004. Chúng tôi đang tuyển bệnh nhân có trạng thái PDL1 trên 50% và cung cấp 60 Gy xạ trị trong các phân liều 2 Gy cùng với liệu pháp miễn dịch mà không có hóa trị trong nhóm bệnh nhân PDL1 cao.
ILCN: Phần tiếp theo của câu hỏi đó là liệu ông có giới hạn thử nghiệm này cho bệnh nhân có biểu hiện PDL1 trên 50% không?
Dr. Bradley: Đúng vậy. Nhưng tôi nghĩ bạn chỉ nên thực hiện điều đó trong một thử nghiệm. Câu hỏi này đang được đặt ra trong các thử nghiệm lâm sàng khác nhau. Nếu một bệnh nhân ở tình huống này, họ có thể hỏi, “tôi có thực sự cần hóa trị không?” Đây là một câu hỏi hợp lý và cần có câu trả lời!
ILCN: Điều này dẫn đến câu hỏi tiếp theo của chúng tôi, về tính độc hại của phác đồ điều trị đồng thời. Điều này có ảnh hưởng đến kết quả không? Việc loại bỏ hóa trị có giảm được độc hại không?
Dr. Bradley: Có nhiều bệnh nhân đã ngừng điều trị. Nếu bạn nhìn vào các chỉ số độc hại, đúng vậy, có nhiều độc hại hơn trong nhóm IO. Chúng không phải là các độc hại nghiêm trọng, nhưng đủ để bệnh nhân ngừng sử dụng IO. Hóa trị có nhiều độc hại hơn, đặc biệt là viêm thực quản và viêm phổi. Nếu thiết kế một thử nghiệm ngày hôm nay, bạn có thể hỏi liệu có cần hóa trị trong nhóm PDL1 cao không.
Có lẽ việc sắp xếp lại thứ tự là một lựa chọn. Người ta đang bắt đầu hỏi, chúng ta có nên thực hiện hóa trị-IO trước rồi đến hóa xạ trị không? Chúng ta có nên sắp xếp theo cách đó không? Đây là những câu hỏi mang tính tiên đoán. Giữa PACIFIC 2 và CheckMate-73L, chúng ta hiện có hai thử nghiệm không thành công khi kiểm tra hóa xạ trị đồng thời. Thử nghiệm ECOG/NCTN E5181 được thiết kế tương tự như PACIFIC 2, mặc dù nhóm chứng bao gồm durvalumab củng cố. Kết quả của thử nghiệm này vẫn chưa có, vì vậy chúng tôi không biết sẽ như thế nào. Tuy nhiên, tôi nghi ngờ rằng việc sử dụng hóa trị và IO trước như một chiến lược điều trị tiền bổ sung có thể hiệu quả.
ILCN: Có dữ liệu về các liệu pháp tiếp theo không? Có sự không cân bằng nào ở khía cạnh đó không? Đặc biệt là khi nhiều bệnh nhân thuộc các quốc gia thứ hai và thứ ba?
Dr. Bradley: Khoảng một nửa số bệnh nhân không nhận được liệu pháp tiếp theo. Thật khó tưởng tượng ở Hoa Kỳ, nhưng ở nhiều nơi nếu hóa xạ trị không thành công, bệnh nhân không nhận được chiến lược điều trị thứ hai. Bạn tự hỏi về tình trạng sức khỏe của những người này nếu họ không đủ điều kiện để nhận liệu pháp thứ hai. Có lẽ họ là nhóm bệnh nhân bệnh nặng hơn so với nhóm PACIFIC.
ILCN: Ông nghĩ điều gì khác quan trọng để đưa ra bối cảnh cho vấn đề này?
Dr. Bradley: Nhiều người đã đặt câu hỏi về chất lượng xạ trị trong PACIFIC và bây giờ là PACIFIC-2.
Chúng tôi không có dữ liệu đó từ PACIFIC, nhưng trong PACIFIC-2, với tư cách là một bác sĩ xạ trị và PI, tôi muốn đảm bảo rằng chúng tôi có dữ liệu đó. Đối với PACIFIC-2, chúng tôi đã xem xét các kế hoạch xạ trị trong tuần đầu tiên của bệnh nhân và đưa ra các đề xuất cải thiện. Một số nhà nghiên cứu đã cập nhật kế hoạch của họ để phù hợp với các ràng buộc của phác đồ. Tôi thấy điều đó rất đáng khích lệ.
Tôi không nghĩ bạn có thể chỉ ra chất lượng xạ trị là một vấn đề.
Kết Luận
Những kết quả từ PACIFIC-2 đã mở ra nhiều câu hỏi và hướng nghiên cứu mới trong điều trị NSCLC giai đoạn III. Điều này khẳng định rằng lĩnh vực y học luôn thay đổi và tiến bộ nhờ vào sự nghiên cứu và thử nghiệm không ngừng. Thông qua việc hiểu rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị, chúng ta có thể cải thiện chiến lược điều trị và mang lại hy vọng cho bệnh nhân.