HIỆU QUẢ CỦA BEVACIZUMAB TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI
16:03 - 23/08/2023
Thuốc kháng tăng sinh mạch máu và vai trò trong điều trị ung thư phổi không phải tế bào vảy
ĐIỀU TRỊ SAU KHI THẤT BẠI VỚI THUỐC MIỄN DỊCH
Xét nghiệm DNA khối u trong máu dự báo sự tiến triển khi điều trị Osimertinib trong nghiên cứu FLAURA, AURA3
Miễn dịch Durvalumab điều trị giai đoạn 3. Khám Phá Những Kết Quả Mới Nhất Từ Nghiên Cứu PACIFIC-2
BRIGATINIB VÀ ALECTINIB SAU KHI KHÁNG THUỐC ĐÍCH CRIZOTINIB
BEVACIZUMAB TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO VẢY
Bevacizumab được chấp thuận điều trị ung thư phổi không tế bào vảy giai đoạn tiến triển kết hợp hóa chất. Thử nghiệm ECOG 4599 đánh giá 878 bệnh nhân tái phát tiến triển giai đoạn 3B-4 điều trị hóa chất carbo/paclitaxel có hoặc không bevacizumab. Bệnh nhân ung thư tế bào vảy, di căn não, ho ra máu, ECOG>1 bị loại khỏi nghiên cứu. Sự cải thiện sống thêm (OS) và sống thêm không tiến triển (PFS) được thấy với kết hợp bevacizumab. OS trung bình 12,3 tháng khi có bevacizumab so với 10,3 tháng hóa chất, PFS trung bình 6,2 tháng với bevacizumab và 4,5 tháng với hóa chất, tỉ lệ đáp ứng là 35% và 15%. Tỉ lệ biến cố chảy máu là 4,4% và 0,7%.
Thử nghiệm pha 3 AVAiL đánh giá bệnh nhân giai đoạn tiến triển (3B, di căn hạch cổ, tràn dịch màng phổi, màng tim ác tính, giai đoạn 4) không tế bào vảy điều trị cisplatin/gemcitabine có hoặc không bevacizumab liều 7,5mg/kg và 15mg/kg. PFS đều cải thiện ở 2 mức liều đạt 6,5 tháng, 6,7 tháng so với 6,1 tháng giả dược. Tỉ lệ đáp ứng là 34,1%, 30,4% và 20,1% tương ứng.
Phân tích gộp trên 2252 bệnh nhân so sánh kết hợp bevacizumab với hóa chất, tác giả Lima và cộng sự cho thấy bổ sung bevacizumab giúp cải thiện đáng kể PFS với lợi ích 1,4 tháng và đáp ứng 16%. Đồng thời giảm 11% nguy cơ tử vong, lợi ích về OS là 1 tháng.
Thử nghiệm PRONOUNCE pha 3 so sánh hóa chất Pemetrexed/Carboplatin có hoặc không bevacizumab. Việc bổ sung bevacizumab cải thiện đáng kể về OS, PFS, đáp ứng so với hóa chất đơn thuần. Độ an toàn và dung nạp là tương đương ở 2 nhóm.
Thử nghiệm POINT-BREAK pha 3 đánh giá hóa chất pemetrexed/carboplatin so với paclitaxel/carboplatin kết hợp bevacizumab, kết quả thấy PFS dài hơn đáng kể của pemetrexed so với paclitaxel tương ứng 6 tháng và 5,6 tháng. PFS trung bình với duy trì pemetrexed là 8,6 tháng so với 6,9 tháng duy trì paclitaxel. Tuy nhiên OS không khác biệt đáng kể.
Thử nghiệm AVPERL pha 3 so sánh điều trị duy trì bằng bevacizumab so với bevacizumab kết hợp pemetrexed. Lợi ích về PFS đáng kể liên quan tới kết hợp bevacizumab+pemetrexed so với pemetrexed đưn thuần.
Các thử nghiệm được tiến hành đánh giá vai trò bevacizumab điều trị duy trì kéo dài sau khi điều trị hóa chất tấn công. Nadler và cộng sự đánh giá sử dụng bevacizumab điều trị duy trì so với không điều trị; kết quả thấy bevacizumab duy trì giúp tăng OS đáng kể đạt 20,9 tháng so với 10,2 tháng không điều trị, PFS trung bình tương ứng 10,3 tháng và 6,5 tháng.
Khoảng 20-60% bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có đột biến ở vùng tyrosine kinase của gen EGFR. Các bệnh nhân này điều trị ưu tiên với thuốc đích EGFR như erlotinib, gefitinib, afatinib, osimertinib, nhưng sau khoảng 1 năm điều trị đa số đều kháng thuốc. Dữ liệu tiền lâm sàng cho thấy EGFR và VEGF có chung con đường tín hiệu và sự kết hợp erlotinib với bevacizumab cho kết quả đáng kể. Nghiên cứu JO25567 tại Nhật Bản đánh giá kết hợp erlotinib và bevacizumab, PFS đạt tới 16 tháng với kết hợp thuốc so với chỉ 9,7 tháng erlotinib đơn thuần.
Thử nghiệm pha 3 BeTa đánh giá kết hợp erlotinib và bevacizumab điều trị bước 2 ở bệnh nhân tái phát, liệu pháp kết hợp cải thiện đáng kể PFS đạt 3,4 tháng so với 1,7 tháng, cải thiện đáng kể đáp ứng đạt 45% so với 34% nếu chỉ dùng erlotinib. Tuy nhiên OS không khác biệt với 9,3 và 9,2 tháng.
Như vậy qua các nghiên cứu đều cho thấy bevacizumab có vai trò đáng kể khi kết hợp hóa chất điều trị bước 1, điều trị duy trì hay kết hợp thuốc đích điều trị bước 1 nếu có đột biến EGFR.