BRIGATINIB VÀ ALECTINIB SAU KHI KHÁNG THUỐC ĐÍCH CRIZOTINIB

BRIGATINIB VÀ ALECTINIB SAU KHI KHÁNG THUỐC ĐÍCH CRIZOTINIB

09:18 - 24/10/2023

Nghiên cứu đối đầu so sánh brigatinib và alectinib sau khi bệnh tiến triển kháng crizotinib ở bệnh nhân có đột biến ALK.

THUỐC ĐÍCH AUMOLERTINIB SAU HÓA XẠ TRỊ U PHỔI GIAI ĐOẠN 3
ĐIỀU TRỊ SAU KHI THẤT BẠI VỚI THUỐC MIỄN DỊCH
Xét nghiệm DNA khối u trong máu dự báo sự tiến triển khi điều trị Osimertinib trong nghiên cứu FLAURA, AURA3
Miễn dịch Durvalumab điều trị giai đoạn 3. Khám Phá Những Kết Quả Mới Nhất Từ Nghiên Cứu PACIFIC-2
TẠI SAO ĐỘT BIẾN EGFR L858R CẦN ĐIỀU TRỊ RIÊNG BIỆT

SO SÁNH BRIGATINIB VÀ ALECTINIB SAU KHI KHÁNG THUỐC ĐÍCH CRIZOTINIB

     Đột biến ALK gặp ở khoảng 3-8% ung thư phôir không tế bào nhỏ. Crizotinib là thuốc đích tyrosine kinase phân tử nhỏ đầu tiên được chấp thuận điều trị đột biến ALK và trở thành tiêu chuẩn so với hóa chất.

     Tuy nhiên, đa số bệnh nhân tiến triển kháng thuốc, hay gặp tiến triển thần kinh, ngoài ra có đột biến kháng thuốc ở vùng ALK kinase, khuếch đại gen ALK và các con đường tắt khác.

     Các thuốc mới điều trị sau kháng crizotinib đã được chấp thuận gồm alectinib, brigatinib, 2 thuốc có hoạt tính thần kinh và kháng các đột biến kháng thuốc khác nhau. Trong các nghiên cứu trước khi kháng crizotinib, alectinib cho thời gian PFS 8,1-10,9 tháng, brigatinib từ 14,7-16,8 tháng.

     Nghiên cứu ALTA-3 đánh giá sự ưu thế của brigatinib so với alectinib trong cải thiện PFS sau kháng crizotinib, và đánh giá sự an toàn của thuốc.

     Nghiên cứu tuyển bệnh nhân đột biến ALK, tiến triển sau crizotinib. Bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, giai đoạn tiến triển di căn, đã điều trị ít nhất 4 tuần crizotinib trước khi tiến triển.

     Bệnh nhân phân ngẫu nhiên 1:1 dùng brigatinib 180mg/ngày và alectinib 600mg x 2 lần/ngày, uống cùng thức ăn. Điều trị tới khi bệnh tiến triển hoặc độc tính.

     Theo dõi với chụp CT ngực, bụng và MRI sọ não mỗi 8 tuần trong 12 chu kỳ và mỗi 12 tuần sau đó. Đáp ứng là khi tổn thương đích có đáp ứng ít nhất 4 tuần sau khi bắt đầu có đáp ứng. Theo dõi thêm mỗi 12 tuần sau liều thuốc cuối.

Kết quả nghiên cứu:

     Có 248 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, brigatinib: 125, alectinib: 123. Khi kết thúc theo dõi, 65 bệnh nhân brigatinib và 66 alectinib vẫn điều trị. Thời gian điều trị trung bình brigatinib: 12,9 tháng, alectinib: 13,6 tháng.

     Tỷ lệ bệnh nhân tiến triển ở brigatinib là 40%, alectinib là 46%. Thời gian PFS trung bình với brigatinib là 19,3 tháng và alectinib là 19,2 tháng, chỉ số HR: 0,97. Và không có sự khác biệt về thời gian PFS.

     Biến cố sống còn xảy ra ở 22% nhóm brigatinib và 11% nhóm alectinib. Tỷ lệ sống thêm 1 năm là 89% brigatinib và 96% với alectinib.

     Điều trị bước sau: 59 bệnh nhân phải điều trị bước sau. Với brigatinib, 21/25 bệnh nhân điều trị tiếp với thuốc đích ALK TKI khác thường là alectinib (40%) và lorlatinib (36%). Với alectinib, 28/34 điều trị tiếp ALK TKI, 47% lorlatinib và 24% brigatinib. Hóa chất bước sau dùng ở 44% nhóm brigatinib và 41% nhóm alectinib.

     Tỷ lệ đáp ứng ORR với brigatinib là 52% và 61% với alectinib. Thời gian tới khi đáp ứng trung bình là 1,9 tháng brigatinib và 1,8 tháng với alectinib. Thời gian đáp ứng trung bình DOR với brigatinib là 17,5 tháng và 20,2 tháng với alectinib.

     Với di căn não, ORR brigatinib là 73% và 68% với alectinib. Thời gian tới khi đáp ứng trung bình là 1,9 tháng brigatinib và 3,5 tháng alectinib.

Mức độ an toàn:

     Độc tính chính (AE) do brigatinib là: tăng CPK máu, tăng men gen. Tỷ lệ AE >10% hay gặp hơn với brigatinib so với alectinib là các bất thường xét nghiệm: tăng CPK, men gan và tăng huyết áp. Các AE>10% hay gặp hơn với alectinib là tăng bilirubin máu, táo bón, thiếu máu, phù ngoại vi.

     Các AE độ 3, 4 hay gặp hơn ở brigatinib (44%) so với alectinib (18%). Viêm phỗi kẽ trong 14 ngày đầu điều trị gặp ở 3 (2%) bệnh nhân brigatinib và không gặp với alectinib.

     Các AE phải giảm liều thuốc gặp ở 21% nhóm brigatinib và 11% nhóm alectinib. AE phải tạm dừng liều gặp ở 43% nhóm brigatinib và 15% nhóm alectinib.

Tóm lại:

     Brigatinib không hiệu quả hơn alectinib trong nghiên cứu đối đầu ở bệnh nhân tiến triển sau crizotinib. Hiệu quả là tương đương. Brigatinib và alectinib đều có thời gian PFS kéo dài sau kháng crizotinib.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Brigatinib Versus Alectinib in ALK-Positive NSCLC After Disease Progression on Crizotinib: Results of Phase 3 ALTA-3 Trial

Yang, James Chih-Hsin et al.

Journal of Thoracic Oncology, Volume 0, Issue 0